Ngoài chương trình EB-5, các hình thức visa lao động, sinh sống tại Mỹ như EB-3, L-1A hay EB-1C được nhiều người Việt chú ý.

Chương trình đầu tư định cư EB-5 được tạo ra bởi Luật Di trú năm 1990 với mục đích giúp nước Mỹ thu hút vốn đầu tư, công ty nội địa có thêm vốn để vận hành. Thông qua chương trình này, Chính phủ Mỹ có thể tạo ra thêm việc làm cho người bản xứ, đồng thời khách hàng nước ngoài cũng sẽ được cấp thẻ xanh nếu thỏa điều kiện, đôi bên cùng có lợi.

Hiện chương trình đầu tư định cư EB-5 sắp có nhiều thay đổi và thị trường Việt Nam đang vượt hạn mức visa cho phép cấp trong năm dẫn đến việc thời gian chờ đợi cấp visa lâu hơn trước đây.

Chương trình lấy thẻ xanh diện việc làm EB-3

EB-3 (Employment-Based Third) là chương trình cho phép người nước ngoài đến Mỹ làm việc và định cư theo diện lao động. Công ty tuyển lao động ở Mỹ phải được cấp giấy phép lao động tuyển người theo diện này, phải có hợp đồng lao động chính thức dài hạn và người lao động phải cam kết làm đúng việc trong thời gian hợp đồng cam kết. Trên thực tế, đa phần các công việc của diện EB-3 đều nặng nhọc và thuộc vùng sâu vùng xa như làm nông, làm hải sản… mà các doanh nghiệp tại Mỹ khó tìm lao động người bản xứ.

Chương trình visa tạm cư L-1A

Đối với chương trình L-1A, nhà quản lý cấp cao của các doanh nghiệp được cấp visa tạm cư diện chuyển giao nhân sự cấp cao đa quốc gia (Intracompany Transferee Executive or Manager). Diện này dành cho doanh nghiệp lớn ở nước ngoài và muốn mở rộng thị trường sang Mỹ.

Theo đó doanh nghiệp luân chuyển một quản lý cấp cao sang Mỹ để vận hành công ty ở Mỹ theo kế hoạch kinh doanh đã nộp cho Chính phủ Mỹ. Doanh nghiệp ở Mỹ phải là công ty con hoặc công ty đồng sở hữu của công ty ở Việt Nam. Công ty ở Việt Nam phải chứng minh là doanh nghiệp mình đã thành công, kinh doanh hiệu quả, có đủ tiềm lực tài chính để mở rộng thị trường sang Mỹ. Nhà quản lý cấp cao được luân chuyển sang Mỹ phải là nhân viên của công ty tại Việt Nam và có đủ năng lực để sang Mỹ quản lý doanh nghiệp.

Visa L-1A được cấp lần đầu có thời hạn một năm, sau đó gia hạn hai năm một lần và có hiệu lực không quá 7 năm. Sau năm đầu tiên, trước khi visa hết hạn, doanh nghiệp ở Mỹ phải chứng minh đã vận hành, đã có nhân viên và doanh thu, đồng thời đi vào hoạt động trước khi visa được gia hạn tiếp lần hai.

Visa định cư cho quản lý cấp cao EB-1C

Với trường hợp định cư theo diện EB-1C, sau khi công ty con, công ty đồng sở hữu ở Mỹ hoạt động ít nhất một năm, nhận thấy có nhu cầu cần quản lý cấp cao người Việt ở lại vĩnh viễn. Mục tiêu để vận hành công ty duy trì doanh thu và tăng trưởng, đồng thời, vị trí quản lý này khó có thể thay thế bằng người bản xứ. Từ đó, công ty ở Mỹ sẽ nộp đơn xin visa EB-1C cho nhà quản lý cấp cao ở lại. Nếu được chấp thuận, người quản lý này mới được cấp thẻ xanh định cư Mỹ. Công ty ở Mỹ có thể là công ty mới thành lập hoặc công ty Việt Nam mua lại một công ty có sẵn đang hoạt động ở Mỹ.

Điểm chung của visa L-1A và EB-1C là việc chứng minh công ty mẹ ở Việt Nam đủ lớn, đủ quy mô, đủ tài chính và có đủ cơ sở về kế hoạch kinh doanh để mở rộng sang thị trường Mỹ và phải chứng minh vì sao nhà quản lý cấp cao ở Việt Nam cần sang Mỹ để vận hành, thay vì thuê một người bản xứ tại Mỹ. Lý do đằng sau là ngăn chặn nguy cơ cạnh tranh trong thị trường việc làm tại Mỹ, dẫn đến việc dân bản xứ bị thất nghiệp.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *